Ơn gọi
Ơn gọi là lời mời gọi âm thầm của Thiên Chúa Tình yêu. Từ đời đời trong ý định của Chúa, Chúa đã nhắm gọi ai làm việc gì sau này. Ơn gọi dần dần nảy nở trong thời gian, cho tới một lúc thuận tiện, Chúa làm cháy bùng lên, và Người đem họ vào nơi Người muốn. Linh mục Colin, dòng Chúa Cứu Thế viết về Ơn gọi như sau:
" Giữa đám người hằng hà sa số sẽ được sinh ra trong thời gian, Chúa đã để ý tuyển chọn một số người. Rồi Chúa tách biệt họ ra khỏi đám đông, dành riêng họ cho công việc Tình yêu của Người. Chúa yêu họ cách riêng. Chúa phán với họ như xưa Người phán với các môn đệ:"Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con...(Tin mừng theo thánh Gioan 15,16)
Nói cách khác: Hạt giống Ơn gọi được gieo vào tâm hồn một trẻ em (nam hay nữ), bị chôn vùi ở đấy nhiều năm không ai biết đến, nhưng rồi một ngày kia, hạt giống sẽ mọc lên và vươn mạnh theo hoàn cảnh Chúa thúc đẩy. Trong âm thầm của tâm hồn người được Chúa để ý tới, Chúa khẽ gọi:"Con hãy đến theo Thầy...”
Và, nếu muốn, với tình yêu, linh hồn sẽ ngoan ngoãn đáp lại:"Lạy Chúa, Này con đây...
Và người trẻ chỉ còn đợi ngày đại diện Giáo hội Chúa chấp nhận, và lên đường.
(Rev. P. Colin, Cssr. Đức Mẹ Với Đời Tu, trg. 14)
Như thế, Ơn gọi thật đẹp và dễ thương, vì nó phát xuất từ tình yêu Chúa, và sự đáp trả phát xuất từ tình yêu con người. Tất cả đều là việc của tình yêu thánh thiện và quảng đại.
Tu Triều (Giáo phận) hay tu Dòng???
a/ Tu triều:
Nếu là nam giới, có ý định làm linh mục, bạn có thể vào Chủng viện (Seminary) để được huấn luyện làm linh mục giúp giáo dân trong các xứ đạo thuộc giáo phận nào đó. Vào Chủng viện gọi là tu Triều, ngày nay thay vì gọi là Triều, người ta gọi là làm linh mục Giáo phận (Diocesan priest). Thời gian học hỏi mất chừng 5-7 năm (học triết học, thần học, mục vụ...và nhiều môn khác). Nếu đã tốt nghiệp đại học rồi, thời gian học sẽ được rút vắn hơn một hai năm, tùy giáo phận.
b/ Tu Dòng:
Bạn cũng có thể đi tu Dòng và học hỏi làm linh mục, nhưng thời gian có thể kéo dài hơn, vì còn phải vào Tập viện, khấn tạm một hai ba tới năm sáu năm, tiếp theo là khấn trọn đời, hay khấn cho đến chết. Bạn cũng có thể không làm linh mục mà chỉ làm thầy dòng (nam tu sĩ). Dù là linh mục hay thầy dòng, thông thường là khấn 3 lời khấn, có dòng thêm một lời khấn nữa, tùy Tục lệ dòng.
Ba lời khấn:
1- Khiết tịnh (sống đời độc thân),
2- Vâng phục (vâng lời giám đốc, bề trên truyền dạy), và
3- Khó nghèo (từ bỏ quyền làm chủ của cải riêng mình).
Trước khi nhập Dòng, cần phải tìm hiểu mục đích riêng của mỗi dòng, coi có hợp với sở thích của mình không: có dòng chuyên giáo dục trẻ em qua việc dạy học tại các trường Tiểu, Trung, Đại học. Có Dòng chuyên việc truyền giáo cho người ngoài Công giáo(truyền giáo).
2- Vâng phục (vâng lời giám đốc, bề trên truyền dạy), và
3- Khó nghèo (từ bỏ quyền làm chủ của cải riêng mình).
Trước khi nhập Dòng, cần phải tìm hiểu mục đích riêng của mỗi dòng, coi có hợp với sở thích của mình không: có dòng chuyên giáo dục trẻ em qua việc dạy học tại các trường Tiểu, Trung, Đại học. Có Dòng chuyên việc truyền giáo cho người ngoài Công giáo(truyền giáo).
Có Dòng chuyên giúp bệnh nhân trong các bệnh viện.
Có Dòng chuyên in và phổ biến sách báo, băng nhạc, video,giáo dục. Có Dòng chuyên việc cầu nguyện như Dòng kín Carmelo.
Tìm hiểu ơn gọi tu trì
Thật khó khăn để biết chính xác rằng ta có ơn gọi tu trì hay không; bởi vì ơn gọi, trước hết, là một mầu nhiệm. Thiên Chúa không nắm lấy chúng ta và lôi chúng ta đi, nhưng Ngài dùng những phương tiện thông thường để cho chúng ta biết Ngài đang gọi chúng ta. Đây luôn là việc nhiệm mầu và có tính cách riêng tư đối với mỗi người chúng ta. Thiên Chúa luôn tôn trọng chúng ta và đối xử với chúng ta như những con người tự do. Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người và Ngài muốn chúng ta sử dụng lý trí của mình để nhận thức về ơn gọi của chúng ta.
Trong lịch sử Giáo hội, nhiều nhà thần học cũng như nhiều tác giả viết về đời sống thiêng liêng, đã nhận định rằng Thiên Chúa sử dụng những dấu hiệu tự nhiên để hướng chúng ta hoặc để thu hút chúng ta đến một ơn gọi nào đó. Bạn sẽ không bao giờ biết một cách chắc chắn, nhưng bạn nên tự hỏi xem bạn có nhận được những dấu hiệu mà giúp bạn phán đoán bạn có ơn gọi tu trì hay không?
Ba dấu hiệu căn bản của một ơn gọi tu trì:
Có ba dấu hiệu căn bản, nhưng cũng rất là đơn giản, của một ơn gọi tu trì. Đó là: ao ước sống đời sống đó, động cơ đúng đắn cho đời sống đó và sự thích hợp cho đời sống đó.
a. Trước tiên, để tìm hiểu xem bạn có ao ước sống ơn gọi đó không, bạn cần tự hỏi xem bạn có ý thích, có hướng chiều vể ơn gọi đó không? Tôi có cảm thấy say mê, thỏa mãn, vui mừng hay có những tình cảm tích cực tương tự như thế khi nghĩ về ơn gọi đó không? Bạn cần nghiêm túc xét mình như thế, bởi vì Chúa không muốn thu hút bạn về một ơn gọi mà nó lại đi ngược với ý muốn của bạn. Nhiều người nghĩ rằng họ muốn đi tu, bởi vì Thiên Chúa muốn như vậy. Nếu họ không làm theo ý Chúa, họ sẽ bị phạt hoặc sẽ gặp bất hạnh. Thiên Chúa không hành động theo cách đó. Ngài lôi kéo chúng ta theo chiều hướng tự nhiên của chúng ta. Nếu chúng ta có chiều hướng về một ơn gọi nào đó, đó là một dấu hiệu tốt. Thiên Chúa tôn trọng tự do của chúng ta và Ngài muốn lôi cuốn chúng ta.
b. Ao ước không thôi chưa đủ, bạn cần có thêm những dấu hiệu khác nữa. Dấu hiệu thứ hai là muốn sống đời sống đó vì những lý do chính đáng. Đây là vấn đề “động cơ thúc đẩy.” Động cơ nào nằm sau sự thích thú và quan tâm của tôi? Có những lý do tinh thần tích cực như: muốn phục vụ Chúa cách trực tiếp, muốn biết và yêu Chúa nhiều hơn, muốn mở rộng nước Chúa, muốn hoàn toàn sống cho Chúa và tha nhân,… Đây thực sự là những động cơ tốt đẹp. Chúng dựa trên đức tin, động lực tinh thần, chứ không phải là những ao ước tự nhiên.
Có những lý do vụ lợi hoặc ích kỷ như: được người ta kính trọng, có nhiều cơ hội để thăng tiến, cuộc sống được bảo đảm,… Không ai có thể nói là mình có động cơ trong sáng trong tất cả những công việc mình làm. Thường có sự pha trộn giữa những động cơ tốt và những động cơ không tốt trong cuộc sống chúng ta. Cũng có những động cơ pha trộn như thế trong việc ao ước sống đời tu trì, nhưng động lực hướng dẫn ban đầu phải thật sự trong sáng và vô vị lợi. Thật không luôn luôn dễ dàng để nhận thức về những động cơ của chúng ta. Bởi đó, chúng ta cần cầu nguyện để biết được thánh ý Chúa và cần có những vị linh hướng để giúp chúng ta nhận định rõ hơn.
c. Dấu hiệu thứ ba là sự thích hợp. Đó là khả năng để sống đời tu, sống một cách thoải mái, vui vẻ, rộng lượng. Bạn phải thích hợp với đời sống đó và đời sống đó phải thích hợp với bạn. Đây là những đức tính tự nhiên và siêu nhiên giúp bạn tìm thấy niềm vui và hạnh phúc trong đời dâng hiến. Đi tu là tu cả con người. Ơn thánh không cản trở hay thay thế bản chất tự nhiên của ta, nhưng chỉ thăng hoa và thánh hóa nó. Bản chất tự nhiên của ta không chết đi và với thời gian có thể bùng lên. Bởi đó, việc nhận định ơn gọi cần căn cứ vào những khả năng đạo đức, tâm lý và thể lý. Giáo luật điều 642 nhấn mạnh đến yếu tố sức khoẻ, tính tình thích đáng và có đủ các đức tính của sự trưởng thành. Nhiều người thích đời tu nhưng lại không thể sống thích hợp với nó được. Cũng vậy có nhiều người thích hợp với đời sống tu trì, nhưng họ lại không muốn bước vào con đường đó. Họ không bị nó thu hút. Thiên Chúa tôn trọng tự do của mỗi người và tôn trọng cái cách mà họ là.
Tóm lại, để xác định ơn gọi tu trì, bạn phải có cùng lúc ba dấu hiệu căn bản trên. Tuy nhiên, bạn vẫn phải tìm hiểu và suy xét kỹ, vì nhiều khi “thấy vậy mà không phải vậy.” Chẳng hạn, việc thích sống đời sống độc thân có thể là dấu hiệu của ơn gọi tu trì, nhưng chúng ta phải tìm hiểu xem động lực của việc thích sống độc thân là gì? Đó có phải là vì thích sống khép kín và lập dị? Hay là không thích những người chung quanh? Tu là dâng hiến, là cho đi, là phục vụ nên không thể chấp nhận lối sống đó được. Thích cầu nguyện cũng có thể là dấu hiệu của ơn gọi, nhưng phải tìm hiểu xem nguyên nhân nào thúc đẩy ta đến việc cầu nguyện. Có phải vì ta sống cô đơn, không bạn bè, không có người tâm sự, không biết chia sẻ cùng ai nên ta cầu nguyện để tìm nguồn an ủi? Đời tu là tận hiến cho Thiên Chúa, sống thân tình với Ngài, chứ không phải là nơi tìm an ủi cho bản thân. Có những người nhút nhát, sợ trách nhiệm, sống dựa vào người khác, nên muốn tìm đến đời sống tu như một nơi nương tựa, bảo đảm cho cuộc sống. Đó không phải là dấu hiệu của một ơn gọi.
Ơn gọi là một ân huệ đặc biệt Thiên Chúa ban cho một số người nào đó. Chúa có nhiều cách để gọi chúng ta mà chúng ta không thể ngờ tới được. Điều quan trọng là chúng ta cần phải ý thức và sống theo ý Chúa. Ơn gọi tu trì là một ân huệ, nên chúng ta cần tìm hiểu, khám phá ra và nuôi dưỡng ơn gọi đó.
Ngoài ra, chúng ta còn cần dựa trên nhưng yếu tố chính của một ơn gọi tu trì:
- Một niềm tin tưởng mạnh mẽ vào Giáo hội và giáo huấn của Giáo hội.
- Yêu thích đời sống cầu nguyện.
- Yêu thích đời sống cầu nguyện.
- Sẵn sàng từ bỏ và hy sinh theo bước Chúa Kitô.
- Sống vị tha và có khả năng hiến thân phục vụ tha nhân, nhạy cảm trước những nhu cầu của thời đại.
- Có ý chí vươn lên, khắc phục mọi khó khăn hiện tại trước những đòi hỏi của Tin mừng.
- Có tinh thần đối thoại, cởi mở và biết lắng nghe tha nhân.
Lược trích từ dongten.net
Dấu chỉ ơn gọi
(Signes Probateurs de Vocation)
Cho đến nay các nhà Thần Học cũng không hiểu nổi bản chất của ơn gọi và Giáo Hội cũng không tuyên bố gì về bản chất ấy. Tuy nhiên trong thực tế, Giáo Hội đã theo đường hướng sau đây:
Ðầu thế kỷ 20 này đã có một cuộc tranh luận quan trọng về Ơn Gọi làm Linh mục. Ðức Giáo Hoàng Piô thứ X đã thiết lập một Ủy Ban gồm các Hồng Y để học hỏi về vấn đề ấy. Ủy Ban đã đúc kết thành một quyết nghị đệ lên Ðức Thánh Cha ngày 20.6.1912 và được phê chuẩn ngày 26.6.1912. Quyết nghị ấy đã trở nên khuôn vàng thước ngọc để định đoạt về Ơn Gọi vào bậc tu trì. Sau này, quyết nghị ấy cũng được áp dụng trong Giáo Luật 1917 ở điều khoản 538 và trong bộ Giáo Luật mới 1983 ở điều khoản 642.
Dựa trên quyết nghị ấy, về phần tiêu cực, người muốn đi tu phải là người không vướng mắc những ngăn trở khiến cho việc gia nhập Dòng Tu trở nên bất thành hoặc bất hợp pháp. Ví dụ: Vào Tập Viện khi chưa đủ 17 tuổi hoặc còn vợ, chồng hoặc từ Dòng tu khác qua mà không có phép chính thức theo Giáo Luật (GL.643)
Nhưng quan trọng hơn cả là phần tích cực gồm có những cái mà nhà Tu Ðức và Thần Học gọi là các DẤU MINH CHỨNG ƠN GỌI (signes probateurs de Vocation). Các Dấu nào?
1. Trước hết phải xét đến Thiện Chí hay ý ngay lành của thỉnh sinh. Muốn tận hiến cho Chúa trước tiên phải ước ao, phải muốn đi Tu. Không phải chỉ là một ước muốn mơ hồ, mà là một ý muốn cương quyết mạnh mẽ và lâu bền đầy ý thức. Ðành rằng có thể có những hối tiếc, những cám dỗ như truyện bà thánh Chantal, nhưng đương sự vẫn cố gắng và cương quyết vượt qua. Ði theo Chúa không phải vì vụ lợi vì danh vọng mà vì muốn nên trọn lành. Chúa phán cùng người thanh niên: nếu con muốn nên trọn lành hãy về bán hết tài sản...... Ðó là dấu căn bản thứ nhất. Nhưng thiện chí thôi không đủ. Cần có những khả năng nữa. Khả Năng là gì? Là những đức tính tự nhiên và siêu nhiên khiến cho người thỉnh sinh có hy vọng vuông tròn với cuộc sống mình chọn. Ði tu là tu cả con người. Và ơn thánh không cản trở hay thay thế bản chất tự nhiên mà chỉ siêu hóa và thánh hóa. Vì vậy phải chú trọng đến các đặc tính tự nhiên và siêu nhiên. Bà thánh Jeanne de Chantal nói với chị em trong Dòng rằng: Hãy chú trọng đến phương diện tự nhiên của các thiếu nữ được nhận vào Dòng. Vì bản chất tự nhiên không chết và với thời gian có thể vùng lên. Ít kẻ nhận ơn để kềm chế bản năng xấu tự nhiên. Ít khi một thiếu nữ có bản tính tốt và có trí khôn mà lại hư mất.
2. Có 5 Khả Năng thường được cân nhắc khi thẩm xét một ơn kêu gọi vào Dòng.
1- GIA ÐÌNH
Thật ra ngày nay Giáo Hội bãi bỏ ngăn trở về gia đình trong việc tu trì như đối với con ngoại hôn. Nhưng thường phải thẩm xét về thế giá của gia đình. Thế giá đây không phải là vấn đề giàu nghèo, sang hèn, mà chú tâm đến sự liêm chính, đức tính làm ăn cần cù, nhất là lòng đạo đức của người làm cha mẹ. Cây lành thường sinh trái tốt. Kinh nghiệm cho thấy những ơn gọi thường phát xuất từ vùng quê, trong những gia đình đạo đức làm ăn cần cù tiết kiệm.
2- SỨC KHỎE VÀ TÍNH TÌNH
Không cần phải là nhà lực sĩ mới đi tu được. Nhưng người Thỉnh Sinh phải có một sức khỏe vừa phải, khả dĩ vuông tròn bổn phận mai sau. Sức khỏe ảnh hưởng đến tính tình, học vấn và nhân đức. Thể xác yếu nhược thường làm cho ý chí cũng bị ảnh hưởng.
Về tính tình, muốn đi tu phải tập cho có một tính khí QUÂN BÌNH. Không cực đoan. Không nhu nhược mà cũng không ngang ngược. Quá yểu điệu có thể bị gẫy dưới gánh nặng, mà quá ương ngạnh cũng có thể bể gẫy và đạp đổ, làm một nhà cách mạng dễ hơn là một nhà tu. Phải đề phòng tính đa sầu đa cảm, sống với gió và với trăng. Phải tập bỏ tính hoài nghi và thiếu cởi mở. Ði tu là sống và làm việc chung, không được cô đơn như một hòn đảo. Họ sẽ đau khổ và làm cho người khác cũng đau khổ trong đời sống chung.
3- HỌC VẤN (Science)
Muốn đi tu phải có một nền học vấn căn bản. Thường là hết bậc Trung Học. Cách riêng phải có một trí PHÁN ÐOÁN vững chắc. Chạm "mát" không đi tu được. Trí khôn cởi mở có thể hiểu biết về đời sống tu và đại cương về khoa tu đức.
4- LÒNG ÐẠO ÐỨC (Sainteté)
Lòng đạo đức gồm 3 phương diện sau đây cần phải được xét đến:
a. ÐỜI SỐNG NỘI TÂM
- Thích cầu nguyện, sống kết hợp với Chúa, dựa trên một nhu cầu sống hơn là trên tình cảm. Tuy nhiên đây là một sự cố gắng cả một đời, không thể đòi hỏi có ngay từ đầu được.
b. ÐỨC TRONG SẠCH
- Người tu sĩ sẽ khấn đức khiết trinh, cần có sự cố gắng để chế ngự tình cảm từ ban đầu. Lỗi phạm sơ qua và đã ăn năn thống hối, không đặt thành vấn đề. Nhưng khi đã thành tập quán, sa đi ngã lại nhiều lần, không nên đi vào đời tu trì.
c. LÒNG QUẢNG ÐẠI HY SINH
- Hay thương giúp kẻ khác là đức tính cần thiết. Người ích kỷ chỉ biết có mình thôi không đi tu được.
5- ÐẶC TÍNH XÃ HỘI (Socialbilité)
Người tu sĩ phải biết sống chung. Ðời tu đòi hỏi đặc tính xã hội, hòa mình với kẻ khác. Vì thế phải tập cho có một tính tình dễ dãi, không nên là thánh giá cho kẻ khác nhưng đem niềm vui cho những người chung quanh.
ƠN GỌI THÀNH HÌNH VỚI SỰ CHẤP THUẬN CỦA BỀ TRÊN
Xưa nay có nhiều tiếng gọi vọng lên mà không có sự đáp ứng. Chúa Giêsu gặp một thanh niên, người nói với anh: "Nếu anh muốn nên trọn lành thì hãy đi bán những gì anh đang có. Bố thí cho người nghèo khó và anh sẽ có một kho tàng trên trời, rồi hãy trở lại theo Ta. Nghe lời ấy, người thanh niên bỏ đi buồn rầu, vì anh có nhiều của cải" (Mt.19,21-22).
Nhiều khi tiếng Chúa cũng vọng lên rồi mất tăm trong sa mạc, không có đáp ứng hay bị phản bội. Staline là một cựu chủng sinh. Nhà cách mạng khát máu Robespierre lúc thiếu thời đã được Cha Linh Hướng bảo: "Con có ơn gọi làm Linh mục".
Vậy điều cần thiết là tìm hiểu ơn gọi rồi đem hết thiện chí đáp ứng. Nhưng thiện chí cũng như những khả năng nói trên mà mỗi Thỉnh Sinh cố tập cho có, nói được chỉ là chất liệu của ơn gọi.
Muốn thành Ơn Gọi thật thì phải có sự chấp thuận của Bề trên. Trong Giáo Hội, Chúa điều khiển các linh hồn qua các Ðấng Bề Trên.
Trước một Ơn Gọi, cá nhân mỗi đương sự phải đi tìm hiểu học hỏi. Bề trên cũng cân nhắc suy nghĩ và quyết định. Sự chấp thuận của Bề trên, Giáo Hội làm cho Ơn Gọi thành hình và hoàn hảo. Người Thỉnh Sinh có thể nói: Tôi có Ơn Gọi và khi được Khấn Dòng thì trở nên Tu Sĩ thật của Chúa và Giáo Hội.
KẾT LUẬN
Mỗi người trong chúng ta cần phải tìm cho được con đường mà Chúa muốn cho mình đi. Hạnh phúc cả cuộc đời tùy thuộc sự việc ấy. Vì thế, chúng ta hãy cầu nguyện, hãy tìm hiểu, hãy xin ơn soi sáng.
Cha mẹ thánh nữ Têrêxa Hài Ðồng Giêsu, ông Martin và bà Guerine đã đi tìm hiểu đời sống tu trì. Nhưng Chúa không muốn cho họ đi con đường ấy và họ đã bước vào cuộc sống gia đình và nên thánh. Phải chăng Chúa cũng muốn cho các bạn đi vào cuộc sống hôn nhân ấy? Hai ông bà có 5 người con Têrêxa là con út, đã vào Dòng Kín. Con đường ấy, biết đâu cũng là con đường của một số trong các bạn?
Chúng tôi xin kết luận với lời tâm huyết của Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI:
"Chúng tôi kêu gọi cách riêng các bạn trẻ mà chúng tôi rất ưu ái. Các bạn chưa có một quyết định tối hậu nào để các bạn tỏ ra hào hiệp hy sinh. Có rất nhiều tiếng gọi. Có rất nhiều ngã đường đang mở ra trước mắt các bạn, kêu mời bạn tiến lên để phục vụ dân Chúa và Giáo Hội. Phải chăng tiếng gọi này sẽ không có đáp ứng? Phải chăng con đường ấy sẽ không có người đi? Các bạn đầy rộng lượng hy sinh. Hãy hy sinh cho lý tưởng ấy. Vì sao bạn dừng chân và chờ đợi? Trong khi đó thế giới này đang thay đổi mau lẹ. Từng đoàn người mới xuất hiện trên trái đất. Tin Mừng phải được rao giảng cho mọi người. Cho người nghèo khó hôm qua cũng như ngày nay và ngày mai. Luôn luôn có những người đói khát, lao tù, những người bệnh tật trong thể xác và tâm hồn.
Họ đang chờ đợi bạn, Trong họ, Chúa Giêsu đang chờ đợi bạn. Có việc cho mọi người! Có chỗ đang đón bạn”
Các chứng từ về ơn gọi
Bài tóm lược các chứng từ của ba tân linh mục, cha Antoine Germaine, Vincent Mai Văn Bảo và Guillaume Normand sau đây chứng tỏ môi trường gia đình, cộng đoàn và sinh hoạt bạn bè là những nôi sinh thuận lợi làm nẩy mầm ơn gọi… Mầm ơn gọi này được vun xới đặc biệt bởi gương sáng và lời cầu nguyện của cha mẹ và đời sống đức tin của những người đồng lứa tuổi…
1. GƯƠNG SÁNG CỦA CHA MẸ
Cha Antoine Germain sinh năm 1975 tại Parthenay (Deux-Sèvres), chịu chức linh mục 2006, nơi làm mục vụ đầu tiên là xứ đạo Saint Jean Baptiste de Grenelle. Cha tuyên bố : "Qua gương sáng của ba mẹ tôi, tôi khám phá ra Thiên Chúa…"
Lúc còn trẻ, tôi không muốn đi học giáo lý, không muốn chịu bí tích Thêm Sức, vì tôi không có niềm tin vững chắc vào Thiên Chúa. Tôi thích âm nhạc, thổi kèn đánh trống, nhảy rốc (rock). Vào tuổi thanh niên, tôi buông trôi mọi việc đạo đức, trừ một việc là đi lễ chúa nhật theo sự bó buộc của ba mẹ. Nghe Lời Chúa cả năm mà tôi chẳng hiểu gì, tôi muốn bỏ Giáo Hội, nhưng lại giữ liên lạc với Giáo Hội qua tổ chức Hướng Đạo Âu Châu và nhờ ba mẹ tôi. Một buổi tôi cầu nguyện, tôi xúc động khi nghe những lời van xin của ba tôi dâng lên Thiên Chúa. May mắn cho tôi là tôi có cha mẹ thật tâm đầu ý hợp. Ba mẹ tôi là một đôi vợ chồng thật hạnh phúc vì biết tín thác vào Thiên Chúa. Thấy ba mẹ hạnh phúc, tôi cũng muốn được hạnh phúc. Cho đến 18 tuổi tôi vẫn cầu xin ‘Lạy Chúa, nếu thật Chúa hiện hữu, xin Chúa tỏ cho con thấy’. Lúc 20 tuổi, khi đi dự Đại Hội Quốc Tế ‘Liên Nhóm Thanh Niên Thánh Mẫu’ (Equipes Notre Dame Jeunes) tại Colombie, trong thánh lễ bế mạc, tôi được ‘nhận ra Thiên Chúa hiện hữu thật’, Ngài yêu thương tôi… và chỉ trong khoảnh khắc, Ngài đổi hướng đời sống tôi ! Tôi tự cảm thấy phải đi gặp Ngài, nhưng tôi hầu như không biết gì về Ngài !…
Trong thời gian học chuyên viên kế toán (Expert Comptable) tại Poitiers, tôi ghi danh học một khóa giáo lý, rồi tôi đi lễ mỗi ngày, xưng tội đều đặn, tìm một cha linh hướng. Phong trào ‘Tuổi trẻ Thánh Mẫu’ (NDJ) ảnh hưởng rất nhiều trên tôi. Chính khi sinh hoạt trong phong trào mà tôi lại nghe tiếng Thiên Chúa thúc bảo: tôi xin chịu phép Thêm Sức năm 1997, lãnh trách nhiệm điều khiển phong trào… Trong thời điểm này, tôi khám phá ra hai điều mới lạ mà trước đó tôi quan tâm : có nhiều linh mục trẻ trung và các ngài thật hạnh phúc !
Sau cùng, trên đường dài đi bộ 1300km từ Poitiers đến Saint Jacques de Compostelle, tôi có thêm một kinh nghiệm quý báu là ‘Lời Chúa phong phú vô lường’ : suốt hai tháng hành hương, tôi chỉ đọc và nghiền ngẫm một bản văn… Tôi không phải là nhà thần bí học, nhưng tôi đã nhận ra rõ ràng ‘chỉ mình Thiên Chúa là đủ’. Tôi quyết định đi theo Ngài !
Tôi sống ở chủng viện như một khẳng định ơn Chúa gọi tôi. Tôi không phải là chiêm niệm gia, nhưng tôi khám phá ra mỗi ngày rằng : Cầu nguyện là cốt yếu để tìm ra và thực thi thánh ý Thiên Chúa, và nơi cầu nguyện tuyệt hảo là trước Thánh Thể… Tôi quan tâm đến việc giúp cho giáo dân khám phá ra ý nghĩa của Thánh Lễ chúa nhật và tầm quan trọng của phụng vụ thánh lễ. Đối với tôi việc đọc sách nguyện rất quan trọng, vì là ‘linh mục cầu nguyện thay cho Dân Chúa’. Để giữ quân bình giữa đời sống thiêng liêng và đời sống hoạt động, linh mục cần cầu nguyện chung với các linh mục khác, cần làm việc chung với nhau, cần gặp gỡ nhau…»
2. LỜI CẦU NGUYỆN CỦA NGƯỜI MẸ
Cha Vincent Mai Văn Bảo sinh năm 1976 tại giáo phận Bùi Chu (Bắc Việt), chịu chức linh mục 2006 quả quyết: "Tình yêu của Thiên Chúa được bày tỏ ra qua tình yêu của cha mẹ".
Sau đây là lời chứng của cha Bảo: "Mẹ tôi đã dạy tôi làm dấu Thánh Giá và đọc Kinh Kính Mừng. Đó là kỷ niệm xa xưa nhất của tôi khi còn thơ ấu. Suốt thời gian ttuổi nhỏ, tôi sống trong một làng quê nhỏ bé toàn tòng công giáo sùng đạo tại miền Bắc Việt Nam. Ba mẹ tôi là những người làm nghề nông nghiệp, riêng ba tôi lại có thêm nghề thợ mộc. Tôi lớn nhất trong năm đứa con, ba em gái và một em trai. Tôi là đứa con duy nhất lâu lâu được mẹ dẫn đi đọc kinh tối với dân làng và bấy giờ tôi chưa hiểu gì đáng kể. Vì thế đời sống kitô hữu của tôi được bắt đầu bằng những cử chỉ rất đơn sơ… Sau khi đậu tú tài, tôi đi học vi tính tại Hà Nội, cách làng tôi 120 cây số. Chính tại Hà Nội mà cậu tôi, người đầy niềm tin, cũng là sinh viên tại thủ đô, đã chỉ cho tôi làm quen với cộng đoàn các cha Dòng Chúa Cứu Thế. Và năm 1995, cha bề trên đón nhận tôi vào nhóm sinh viên trẻ. Vừa theo học, chúng tôi vừa sinh hoạt chung với nhau trong niềm tin và chia sẻ, học hỏi Thánh Kinh hai lần mỗi tuần. Mục đích của nếp sống huynh đệ này là để mỗi người tìm kiếm ơn gọi phù hợp với mình. Trong hai năm đầu tiên học tại Hà Nội, tôi không bao giờ nghĩ đến ơn gọi linh mục. Nhưng qua năm 1998, tôi được thúc đẩy bởi bài giảng của cha bề trên cộng đoàn. Ngài khêu gợi tình yêu của Thiên Chúa dành cho mỗi người. Bỗng nhiên, tôi cảm nghiệm về tình yêu bao la của cha mẹ tôi dành cho tôi và tôi nhận ra tình yêu của thiên chúa bày tỏ ra trong lịch sử của con người. Tôi bắt đầu tự vấn về ơn gọi của tôi và sau hai tuần nghe cha bề trên cộng đoàn giảng, tôi thưa với ngài về ước nguyện tôi muốn làm linh mục. Một tháng sau, tôi phải lấy can đảm báo tin cho ba mẹ tôi biết ý nguyện của tôi. Tại Việt nam vai trò của người con cả rất quan trọng vì họ sẽ là cột trụ trong gia đình khi người cha già cả hay quá vãng. Vấn đề nối dòng cũng thật chủ yếu. Trước tiên tôi nói với mẹ tôi. Mẹ tôi trả lời một cách sung sướng : «Từ rất lâu mẹ hằng cầu nguyện cho ơn gọi của con». Tôi nướm khóc. Mẹ đã dành cho tôi một tình yêu thật điên rồ ! Đối với ba tôi, việc tôi đi tu mới khó chấp nhận. Sau bốn năm rưỡi học tại Hà Nội, năm 2001, tôi đi qua Pháp để vào chủng viện Paris…
Việc hội nhập vào đời sống tại Pháp tương đối dễ dàng. Tôi không hiểu tiếng pháp. Trong hai năm đầu, tôi không thể lấy nốt khi nghe giảng bài. Sau mỗi giờ lớp, tôi phải xin các bạn pháp cắt nghĩa lại và cho tôi mượn những tờ họ ghi chép. Có những khác biệt về văn hoá nữa. Sau hai năm, ông Gérard Pelletier, người đỡ đầu việc học của tôi bảo tôi : « Anh đã tiến bộ. Nhưng khi anh luôn miệng nói ‘phải’ mà không có phản ứng gì. Bây giờ anh nói có thì phải là có, anh nói không thì phải là không». Trong văn hóa việt nam, phải luôn trả lời ‘có’ để tỏ ra mình đã lắng nghe người ta nói với mình, điều đó không có nghĩa là mình sẽ hành động như vậy. Dầu sao, tôi không thể nói rằng đời sống ở chủng viện khó khă đối với tôi. Chúa Thánh Thần đã hoạt động và Ngài đã củng cố ơn gọi của tôi. Sống theo gương mẫu Chúa Giêsu là điều hấp dẫn tôi nhất trong chức linh mục».
3. GƯƠNG SỐNG ĐỨC TIN CỦA CÁC BẠN TRẺ
Cha Guillaume Normand, sinh năm 1979, chịu chức linh mục năm 2006. Lúc đó cha mới 27 tuổi, trẻ nhất trong số 12 chủng sinh tiến chức linh mục của giáo phận.
Cha kể : “Chính nhờ một cú điện thoại mà đời sống đức tin của tôi được khai sinh vào năm tôi thi tú tài. Một người bạn mà cho đến năm đó, tôi không biết anh là công giáo, đề nghị với tôi đi hè qua Hoa Kỳ, nhân dịp có những ngày họp mặt của các cộng đoàn Kitô Wyoming, rồi cùng trở về với các người trẻ Hoa Kỳ đi Paris dự JMJ. Tôi nhận lời ngay, tôi khoái chí ra đi sau mùa thi tú tài và hoàn toàn lãnh đạm về khía cạnh tôn giáo của chuyến du lịch. Là đứa con duy nhất của một gia đình mà người mẹ hoàn toàn không tin tưởng, và người cha họa lắm mới đến nhà thờ. Vì thế tôi đã không được lớn lên trong đức tin.
Đến Hoa Kỳ lần đầu tiên, tôi đã có những buổi gặp gỡ thật ý nghĩa với những người trẻ cùng tuổi tôi, họ sống đức tin cách sâu xa. Họ dành thời giờ cho Chúa Kitô và điều đó làm họ hạnh phúc. Cách sống của họ có một cái gì khác lạ đối với tôi… Trước khi nhóm chúng tôi trở về Paris, chúng tôi dừng lại viếng thăm Roma. Trong vương cung thánh đường Thánh Phêrô, có một tiếng mời gọi rất mạnh thúc đẩy tôi đặt câu hỏi về bí tích Hoà Giải. Nhưng tôi tìm đủ mọi lý do thoái thác không đến tòa cáo giải. Tôi muốn ra khỏi nhà thờ, vịn lẽ ‘không có linh mục nào nói tiếng Pháp’. Nhưng ngay cửa ra, tôi bắt gặp một linh mục đang đứng chờ, ngài nói tiếng pháp. Không hên tí nào… Tôi đã lãnh nhận Bí Tích hòa Giải, đóng ấn việc tôi trở về với Đức Kitô. Trở về Paris dự JMJ, dân chúng ngồi đầy trường đua ngựa Champ de Mars, vui vẻ, trẻ trung… lại cho tôi thêm một ấn tượng thật mạnh mẽ. Một câu hỏi đến với tôi : “Mọi người đều đến gặp gỡ, còn tôi, tôi đến làm gì ?” Ngày 24, linh mục hoa kỳ vẫn đi với chúng tôi, dột nhiên hỏi tôi : “Bạn có nghĩ đến việc làm linh mục không ?” Tôi sửng sốt và hơi khó chịu. Vì không thể nói chuyện đó với bất cứ ai… Năm đó tôi bắt đầu vào đại học nghành kinh tế và sinh hoạt với nhóm trẻ của giáo xứ Saint Augustin mà tôi quen biết nhân dịp JMJ. Tôi thuộc nhóm tìm hiểu Thánh Kinh mỗi chúa nhật, và suốt hai năm tôi đã sống ‘dưới sự thấm nhuần Lời Chúa’. Đó là một sự giác ngộ tuyệt tác. Tôi đã không biết tại sao tôi lại khát vọng Lời Chúa đến như vậy ! Thánh lễ chủ nhật trở nên thời điểm quan trọng nhất cho tôi trong mỗi tuần. Một hôm tại đại học, trên những thang dẫn vào lớp, vấn đề linh mục bỗng nhiên lại xuất hiện trong tâm trí tôi. Tôi nghĩ : “Nếu tôi trả lời ‘chấp nhận’, câu chuyện có thể trở thành lớn”. Giáng Sinh 1977, sau khi xưng tội với linh mục đồng hành với nhóm trẻ Saint Augustin, tôi đặt ra cho ngài một câu hỏi thật lớn : “Tại sao Chúa Giêsu dùng cái chết để ban cho chúng ta sự sống đời đời ?”. Chúng tôi đã trao đổi với nhau thật lâu. Tôi phải sống niềm tin làm sao cho phù hợp. Tôi nghĩ : “Nếu Thiên Chúa yêu tôi bằng tình yêu lớn lao như vậy, thì tôi phải sống cho Ngài. Và nếu Phúc âm là chắc chắn, chân thực, kiên vững thì tôi không thể chỉ giữ cho một mình tôi”. Ước nguyện sống đời tận hiến để loan báo Tin Mừng hiện ra trong sáng nơi tôi vào cuối buổi trao đổi. Ít lâu sau, tôi đã thổ lộ cho chính linh mục ấy ước nguyện nóng hổi này. Rồi tôi xin nhập chủng viện sau khi học xong DEUG, bấy giờ tôi vừa 20 tuổi.
Chủng viện giúp tôi sống thân mật với Chúa nhờ việc cầu nguyện mỗi ngày, nhờ việc đọc các giờ kinh (sách nguyện), nhờ việc đọc Lời Chúa : Chính là thời gian chúng ta có thể khai triển ân sủng của Bí tích Rửa Tội, thời gian thúc đẩy chúng ta đào sâu đức bác ái huynh đệ, yêu thương anh em như con người của họ, trong điểm mạnh và điểm yếu của họ. Tôi đã ý thức rằng Chúa còn dẫn tôi đi vào con đường thánh thiện, và chức linh mục là một hồng ân được ban cho Giáo Hội và cho toàn thể dân Chúa.
Mai Đức dịch (trích từgiaoxuvnparis.org)